Ngày 10 tháng 3 năm 1945, báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ. Trong thư có đoạn: "Tôi kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng".
Tiếp sau đó, trong "Thư gửi đồng bào Việt Nam", Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: "Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng".
Hơn nửa tháng sau, khi đi Pháp về, ngày 7 tháng 11 năm 1945, Người đã đến dự lễ "Mùa đông binh sĩ" do Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam tổ chức tại nhà hát Thành phố Hà Nội, vận động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền của để may áo trấn thủ cho chiến sĩ, thương binh, bệnh binh.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên nam nữ tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống gặp khó khăn, mặc dầu anh chị em tình nguyện chịu đựng không kêu ca, phàn nàn.
Trước tình hình ấy, tháng 6 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm là "Ngày thương binh" để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Có lẽ là trừ những ngày kỷ niệm quốc tế - "Ngày thương binh" là ngày kỷ niệm trong nước đầu tiên được tổ chức.
Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hội nghị trù bị đã khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gồm có một số đại biểu ở Trung ương, khu và tỉnh. Hội nghị nhất trí lấy ngày 27 tháng 7 hàng năm làm "Ngày thương binh, liệt sĩ' và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.
Báo Vệ quốc quân, số 11, ra ngày 27 tháng 7 năm 1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban tổ chức ngày thương binh toàn quốc. Đầu thư, Người viết: "Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh".
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: "Thương binh là người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, TỔ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy".
Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm, sẻ áo giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp một chiếc áo lụa, một tháng lương và nhịn ăn một bữa của Người và tất cả các nhân viên Phủ Chủ tịch, tổng cộng là một ngàn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) để tặng thương binh.
Năm sau, ngày 27 tháng 7 năm 1948, trong một lá thư dài đầy tình thương yêu, Bác nói: "Nạn ngoại xâm như trận lụt to, đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc, đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con, dân ta. Trong cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào".
Người xót xa viết: "Họ quyết liều chết chống địch, để Tổ quốc và đồng bào sống. Ngày nay, bố mẹ họ mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở thành bà góa. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ. Tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh".
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào "trước đã giúp đỡ, sau này sẽ sẵn sàng giúp đỡ mãi...".
Năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng anh, chị em thương binh một số khăn mặt, quần áo và một tháng lương là 1.000 đồng. Năm 1950, Người lại gửi một tháng lương tặng thương binh và gia đình liệt sĩ. Năm 1951, ngoài việc tặng chị em thương binh mấy bộ quần áo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị "chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã trích một phần ruộng công, vận động đồng bào cày cấy, lấy hoa lợi đón thương binh về xã. Anh em thương binh tùy sức mà làm công việc nhẹ, làm như vậy giúp lâu dài chứ không phải là giúp trong một thời gian".
Phong trào đón thương binh về làng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vận động đã được chính quyền, đoàn thể và đồng bào cả nước nhiệt liệt hưởng ứng, đặc biệt là mấy xã ở Thanh Hóa và Phú Thọ. Ngày 27 tháng 7 năm 1952, trong thư gửi Bộ trưởng Bộ thương binh - cựu binh, Người đề nghị coi việc giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ là một nghĩa vụ chứ không nên coi đó là một việc làm phúc. Người cũng căn dặn anh chị em thương binh "tránh tâm lý công thần, chớ bi quan chán nản, hòa mình với nhân dân và luôn luôn cố gắng".
Năm 1954, sau khi Thủ đô Hà Nội được giải phóng, ngày 31 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã đến đặt vòng hoa trước đài liệt sĩ - đài mới được dựng trên khoảng đất rộng trong vườn hoa, cạnh quảng trường Ba Đình, trước Phủ Chủ tịch.
Đứng trước đài liệt sĩ, hương trầm nghi ngút, Bác bùi ngùi tưởng nhớ các liệt sĩ và không cầm được dòng nước mắt. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác đọc điếu từ.
Bác viết: "Hỡi các liệt sĩ, trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá quốc kỳ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời truyền với sử xanh.
Một nén hương thanh
Vài lời an ủi
Anh linh của cấc liệt sĩ bất diệt
Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm...”
Sau ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc, trong một lần đi thăm thương binh hỏng mắt, Bác đã khuyên anh chị em "tàn mà không phế". Bác đã dành nhiều phần thưởng cho các thương binh lao động, học tập giỏi. Hàng năm, trong những lời chúc mừng năm mới, kêu gọi đồng bào nhân dân, những ngày kỷ niệm kháng chiến, Bác Hồ vẫn gửi lời chúc thân ái đến các thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết khoảng hai mươi lăm thư gửi anh chị em thương binh, liệt sĩ và Người đã gương mẫu, thực tế đóng góp tặng phẩm, tiền lương để giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
(Trích "Bác Hồ viên ngọc quý của mọi thời đại". Sách hiện đang sẵn sàng phục vụ tại Thư viện tỉnh Đồng Tháp. Phòng đọc: KAVL17.8376, Phòng mượn: MEVV16.5052 - 5053)