Page 297 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 297
282 Đồn lị Tháp Mười
nhưng lại là một khoản thu khôn« nhỏ so với mức sông ỏ
nôn« thôn. Đặc biệt nhất có lẽ là lĩnh vực hoạt động làm
thuê. Tron« toàn bộ mẫu khảo sát, có đến 60,3% số hộ có
tham gia vào lĩnh vực làm thuê công nhật. Ớ Khánh Hưng
có 40,2% sô" hộ có đi làm thuê, Tân Công Sính có tỷ lệ cao
nhất với 72,5% và Tân Hòa Đông với 68,4%. Các con sô
này cho thấy, làm thuê là một nghề rất phổ biên trong ba
cọng đồng này. Khi phân theo loại hộ, chúng ta thây 68%
hộ nghèo và 49,2% hộ trên mức úghèo có đi làm thuê. Ớ
loại hộ nghèo, số trung bình nhân lực tham gia làm thuê
cũng có phần cao hơn so với hộ trên mức nghèo, - các sô
tương ứng là 2,12 so với 1,93 người / hộ. Thế nhưng, thu
nhập từ làm thuê của hộ trên mức nghèo thì cao hơn hẳn so
với hộ nghèo, - gấp 1,6 lần. Như vậy, sự chênh lệch về
mức thu nhập từ làm thuê không phải do sô" lượng nhấn lực
làm thuê của mỗi hộ quyết định, vấn đề. ở đây có lẽ tụy
thuộc vào sô" ngày công làm thuê đã thực hiện được trong
năm. Nhân đây cũng cần lưu ý thêm là, yếu tô" giới tính
của nhân lực làm thuê quyết định giá trả công làm thuê và
VI vậy quyết định cả mức thu nhập của người làm thuê. Cụ
thể là, tại thời điểm khảo sát, giá công lao động làm thuê
nông nghiệp khoảng từ 25 - 30 ngàn đồng đối với đàn ông,
và 15-20 ngàn đồng đôi với phụ nữ.
Trong hiện trạng, yếu tô" quan trọng nhất để vượt lên
trôn mức nghèo chính là sự thành công trong hoạt động
trồng trọt. Phần thu nhập trung bình từ trồng trọt của hộ
tren mức nghèo (10,379 triệu đồng/hộ) lớn gâ"p 41,7 lần so
với hộ nghèo (0,249 triệu đồng/hộ). Trong sô" 99 hộ có
trồng lúa và sông trên mức nghèo, có 91 hộ (91,9%) thu
được lời từ cây lúa. Đồng thời, trong số 18 hộ có trồng