Page 218 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 218
202 Đồng Tháp Mười
ha đã được khai hoang trển tiểu vùng này. Biểu đồ 6 cho
thấy tốc độ khai hoang cao nhất là ở những năm từ 1988 -
1992. Nguyên nhân chính là nhờ sự phát triển các kênh
nhánh (kênh sườn) trong những năm này, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc khai hoang. Từ năm 1993 trở đi, việc
khai hoang càng ngày càng phải triển khai sâu vào vùng
đất phèn nặng với nhiều khó khăn trở ngại, nên tốc độ
giảm dần.
Kết quả tổng hợp của những nỗ lực khai thác nông
nghiệp vùng Đồng Tháp Mười được thể hiện ở sự gia tăng
diện tích canh tác, năng suất và sản lượng lúa. Mặt khác,
kết quả đó còn thể hiện ở quá trình tăng vụ và chuyển vụ
trên toàn vùng. Tính đến năm 1996, trong tổng diện tích
lúa cả năm 625.330 ha, thì tiểu vùng Long An có 221.601
ha, tiểu vùng ĐồngTháp có 284.322 ha và tiểu vùng Tiền
Giang có 119.407 ha (1). năng suất lúa bình quân 4,41
tấn/ha, và sản lượng lúa đạt 2.758.818 tấn.
Xét về cờ câu mùa vụ, đến nay lúa đống-xuân vẫn
chỉếm ưu thế, trong khi diện tích lúa hè-thu tiếp tục tăng và
diện tích lúa mùa vẫn tiếp tục giảm. Tuy nhiên, diễn thế
của cơ cấu mùa vụ trong giai đoạn này đã khác rất nhiều so
với giai đoạn 1981 - 1986. Nhịp độ gia tăng diện tích lúa
đông-xuân càng ngày càng chậm lại. Từ năm 1991 trở đi,
diện tích lúa mùa giảm chậm và dao động ở mức trên dưới
40.000 ha, điều đó cho thấy việc thu hẹp diện tích lúa mùa
cũng đã gần tới mức giới hạn. Tổng hợp các yếu tô' vừa
nói, có thể nhận định rằng cổng cuộc khai hoang mở rộng
(l) Chương trinh Khai thác và phát triển kinh tế-xã hội vùng Đồng
Tháp Mười. Tài liệu đã dẫn.