Page 387 - Khi To Quoc Goi nguyen long trao
P. 387
386 Khi Tổ quốc gọi
tác thơ. Ngoài công tác giáo dục tôi rất muốn được tham gia
công tác về văn học nghệ thuật ở miền Nam. Tôi có thể đi đến
bất cứ nơi nào Đảng cần đến. Nguyện vọng và quyết tâm của
tôi là được về miền Nam, về lại quê hương tôi .
(1)
Trong lý lịch cán bộ, phần kê khai về gia đình, Ca Lê Hiến
còn ghi rõ: “Tôi có vợ chưa cưới tên là Bùi Xuân Lan hiện đang
học năm thứ ba Học viện Kinh tài Thượng Hải (Trung Quốc).”
Với tất cả sự nỗ lực và quyết tâm ấy, đề nghị của em đã được
Tổ chức chấp thuận. Sau một thời gian khổ luyện hành quân
trên đất Phú Thọ, ngày 22/12/1964 Hiến lên đường đi “B” với
cái tên mới là Lê Lan Xuân, ghép chữ “Lê Hiến” và “Xuân Lan” -
đảo ngược thành “Lan Xuân”; sau này vào chiến trường em lấy
bút danh là “Lê Anh Xuân”. Riêng bút danh này tôi đoán có lẽ là
chữ lót của tên ba người: “Lê” của Lê Hiến, “Anh” của nhà văn
Anh Đức - là anh ruột của Xuân Lan và là người đã nâng bước
em trên con đường văn học nghệ thuật từ những ngày đầu và
được em hết sức quí trọng, còn “Xuân” thì chắc chắn là của Xuân
Lan rồi.
Đường hành quân vào Nam là thử thách đầu tiên đối với
Ca Lê Hiến. Nếu như ngày nay, đi Hà Nội - Thành phố Hồ
Chí Minh bằng đường hàng không ta chỉ mất có một giờ bốn
mươi lăm phút, còn đi bằng xe hơi thì cũng chỉ mất hai ngày
hai đêm, thì hồi ấy cuộc vượt Trường Sơn phải kéo dài trong
ba tháng, hành quân vác nặng, trèo đèo lội suối, cơm vắt lá
rừng, hiểm nguy chết chóc luôn cận kề. Với vóc dáng thư sinh,
chân lại bị tê thấp, lòng bàn chân nứt nẻ, nhưng Ca Lê Hiến
quyết chí đi đến cùng vì miền Nam ruột thịt, đi với “tinh thần
anh Trỗi” như Ca Lê Hiến sau này từng kể lại với chị Quyên:
(1) Tờ 25, Hồ sơ 1429 - Ủy ban Thống nhất Chính phủ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.