Page 137 - nam bo xua va nay
P. 137
1802 để tỏ niềm riêng nơi đất khách - tuy rằng đây là viên tổ - nơi
ông đang nhận một trọng trách của triều đình giao cho ông.
Với những bài thơ Nôm này (chùm thơ Nôm đi sứ), tác giả đã
nói lên được tâm sự và chí hướng cùng hoài bão mình đối với Tổ
quốc. Ớ đây xin đơn cử một trong 18 bài thơ trên:
“Nước nhà xưa có phụ chi ai?
Nhắn với hao nhiêu kẻ cõi ngoài.
Gắng sức dời non khoan nói tướng,
Trải lòng nâng vạc mới rằng trai,
Nắng sương chưa đội trcri chung một,
Sông núi đừng cho đất rẽ hai.
Giúp cuộc Võ Thang ra sức đánh,
Người coi để tiếng nhắc lâu dài ”.
(Bài XI, trích lại trong Quốc âm thi hiệp tuyển, Lê Quang
Chiểu, Pièce en deux volumes, Sài Gòn, Claude et Compagnie
édition, 1903).
Ngoài ra trong Cấn Trai hối thực trung biên, Trịnh Hoài Đức
còn ghi lại rất nhiều thơ chữ Hán của ông về vịnh vật, tả cảnh, ngôn
chí... mà loại thơ này của ông đều hàm chứa một nội dung sâu sắc
chứng tỏ ông là ngưỡi có rất nhiều kinh nghiệm về sử, địa, nhân tình
thế thái... trong và ngoài nước, ví như:
“Đào châu quán trục Ngũ hồ du,
Thiên lý giao thừa Phạm Lãi du ”
Nghĩa là:
Nghìn dặm từng rong thuyền Phạm Lãi,
Đào Châu choi nhỡn suốt năm hồ.
150