Page 136 - chua nguyen va cac giai thoai mo dat phuong nam
P. 136
PHU LUC II
TRÍCH MỘT SỐ Tư LIỆU CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI GHI CHÉP
VỀ VÙNG ĐẤT PHƯƠNG NAM (XỨ ĐÀNG TRONG)
CHÂU ĐẠT QUAN TRONG
“CHÂN LẠP PHONG THỔ KÝ"<*>
“Nước Chân Lạp (Tchen-La) cũng gọi là Chiêm Lạp
(Tchan-La)(1). Tên bổn xứ là Cam-Bội-Tri (Kan-po-tche).
Triều đình hiện thời căn cứ vào kinh sách Tây Phiên*2) gọi
1
(
tên nước là cầm Phô" Chỉ (Kan-p’ou-Tche)(3) đọc ra gần
giống như Cam-Bội-Tri (Kan-po-Tche).
Rời bến Ôn Châu (Wen-tcheou) ở Triết Giang (Tchô-
Kiang) và thẳng hướng đinh vị (nam - tây nam) chúng tôi
(*) Chân Lạp phong thổ ký là tác phẩm của Châu Đạt Quan, người quê
ở Ôn Châu, Triết Giang (Trung Quốc) viết sau khi theo phái đoàn đi côn£
cán sang Chân Lạp từ năm 1296 đến 1297, dưới triều nhà Nguyên, ơ
dây chúng tôi dẫn theo bản dịch của Lê Hương, do Kỷ Nguyên Mới ấn
hành tại Sài Gòn năm 1973.
1. Người Pháp phiên âm chữ Tàu theo giọng nói của dân Bắc Kinh, còn
ta dịch theo giọng đọc chữ Nho (Hán Việt). Chúng tôi để những chữ của
người Pháp dịch vào dấu ngoặc để tiện đối chiễu.
2. Ông Pelliot dịch là Tây Tạng, theo tiếng gọi của người Trung Quốc thời
ấy: “Tây Phiên” chỉ các quốc gia chưa khai hóa ở hướng tây. Người Pháp
phiên âm là Kambuja. Theo người Trung Quốc, Thất Châu Dương là ranh
giới giữa Trung Quốc và Việt Nam.
137