Page 108 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 108

Nghiên cứu phát triển                                 91

                 biết  rằng,  trong  vùng  đất  phèn  tiềm  tàng,  nếu  đào  kênh
                 không  đúng  cách  thì  phèn  càng  nặng  hơn).  Có  nơi,  chủ
                 điền chỉ canh tác được một vài vụ  lúa rồi phải bỏ  hoang vì
                 lỗ vốn.  Tốc độ khẩn hoang vì vậy chậm lại.  Mãi đến năm
                 1937  mới  có  công  trình  nghiên  cứu  đưa  ra  kết  luận  cho
                 rằng,  muốn khai  thác  được  Đồng  Tháp  Mười  phải  bỏ  vốn
                 đầu  tư rất  lớn,  đặc  biệt  là  về  thủy  lợi  (1),  và  cần  có  thời
                 gian.  Từ năm  1940 -  1954, thủy lợi hóa ở Đồng Tháp Mười
                 bị đình trệ phần vì không có  hiệu quả, phần khác do chiến
                 tranh.
                     Nhìn chung, công cuộc xây dựng thủy lợi ở Đồng Tháp
                 Mười  không  nằm  trong  trọng tâm chiến  lược  của  nhà  cầm
                 quyền  thực  dân  Pháp.  Điều  đó  thể  hiện  ở  chỗ,  các  kênh
                 đào trên vùng Đồng Tháp Mười không được nhà nước Pháp
                 trực tiếp đầu tư kinh phí như đối với các kênh đào ở những
                 vùng  khác  của  đồng  bằng  sông  cửu  Long,  mà  nhà  cầm
                 quyền cấp tỉnh phải  vay  tiền để  thực hiện.  Các  kênh này
                 chỉ  có  qui  mô  nhỏ,  và  lại  không  được  tu  bổ,  nạo  vét  nên
                 nhanh chóng xuống cấp, việc phát huy tác dụng bị hạn chế.

                     Trong bối cảnh đó, một “cú  sốc” lớn đã  xảy ra ở Đồng
                 Tháp Mười, đánh dấu sự kết thúc công cuộc khai thác dưới
                 thời  Pháp  thuộc  đối  với  vùng  đất này.  Vào  năm  1904  và
                 liền sau đó, các năm 1905,  1906,  1907, bốn trận lụt lớn liên
                 tiếp  đã  phá  hủy  hầu  như  toàn  bộ  hệ  thống  kênh  rạch  ở
                 Đồng Tháp  Mười,  làm  phá  sản  các  dự  định  mở  rộng  việc
                 khai thác nông nghiệp ở đây của nhà cầm quyền Pháp.  Từ
                 sự kiện  này  cho  mãi  đến  năm  1954,  bao  nhiêu  dự  án  cải


                 (l)   Xem  thêm  :  Huỳnh  Lứa  (chủ  biên).  -  Lịch  sử khai phủ  vùng  đất
                     Nam Bộ.  Nxb. TP HCM,  1987, tr.  188.
   103   104   105   106   107   108   109   110   111   112   113