Page 106 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 106
Nghiên cứu phát triển 89
khó khăn. Để đào được con kênh chính, người ta đã phải
đào một loạt các kênh nhánh trước (từ rạch Cái Bè - Cai
Lậy lên phía bắc) để từ đó đưa nhân công, nước uống và
phương tiện hậu cần vào vùng sâu, - nơi thi công tuyến
kênh chính. Và do vậy, một hệ thống kênh nhánh đã hình
thành trước khi kênh chính được hoàn thành. Các kênh
nhánh này, - mà ngày nay vẫn tiếp tục đóng vai trò quan
trọng, - mang tên : Kênh 1, Kênh 2, Kênh 3, Kênh 4, Kênh
5, Kênh 6, Kênh 7. Kênh 8, Kênh 9, Kênh 10 nối liền rạch
Cái Bè - Cai Lậy với kênh chính. Tổng cộng chiều dài 10
con kênh nhánh nối vào kênh chính là 118,8 km, - trong đó
kênh 1 dài 6 km; kênh 2 : 8 km; kênh 3 : 9,8km; kênh 4 :
11,5 km; kênh 5 : 18,1 km; kênh 6 : 21,5 km; kênh 7 : 10,5
km; kênh 8 : 11,5 km; kênh 9 : 10,5 km; kênh 10 : 11,4 km
(1). (Đến những năm 1900 - 1901, nhà cầm quyền Pháp lại
cho đào thêm các kênh nhánh khác : Kênh 25, Kênh 26,
Kênh 27, Kênh 28, Kênh 29) m.
Việc thử nghiệm tỏ ra thành công, và từ năm 1896,
Trần Bá Lộc được phép mở rộng đến 10 mét đoạn kênh
chính dài 46,2 km. Kênh này sau khi hoàn thành đã được
viên Toàn quyền Đông Dương chấp thuận đặt tên là kênh
Tổng đốc Lộc (thời đầu thế kỷ cũng còn gọi là Kênh Mới).
Kênh chính Tổng đốc Lộc, một đầu nối vào rạch Bà Bèo
(do Đô đốc Nguyễn Trấn chủ trương đào, thời Tây Sơn) và
một đầu nốì vào Rạch Ruộng thông với sông Tiền, ở vị trí
thuộc huyện Cái Bè. Công trình này hoàn thành vào năm
(l> Géographie physique, économique et historique de la Cochinchine,
IV Facicule - Monographie de la province de Mỹ Tho. Sđd., p. 20.
(2) Xem thêm : Phan Khánh (chủ biển). - Sơ thảo lịch sử thủy lợi Việt
Nam (tập ì). Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981, tr. 192 - 193.