Page 151 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 151

Nghiên cứu phát triển                              135

             năm  1850,  tỉnh  Định  Tường  (chủ  yếu  ở  vùng  Đồng  Tháp
             Mười) có tới 87 xã thôn bị “điêu báo” và trong số ruộng đất
             mà  chính quyền buộc  phải  miễn  thuế ở  đây  có  tới  14.843
             mẫu  “nguyên  trước  báo  là  đã  khai  khẩn  nhưng  sau  lại  bỏ
             hoang” (1).  Đấy là  một thực tế đã  từng diễn ra ở nhiều nơi
             trong buổi đầu người Việt vào khai phá  vùng đất Nam Bộ,
             chứ không phải chỉ riêng ở Đồng Tháp Mười, -  nhưng thực
             tế đó đã chẳng làm lùi bước những lớp người đi khẩn hoang
             mở đất.
                 Nhìn chung, trong buổi đầu công cuộc khai phá, các khu
             vực Đồng Tháp Mười dọc sông Tiền tiến triển hơn rất nhiều
             so với các khu vực trung tâm và dọc sông Vàm cỏ.  Cho tới
             năm  1836, dọc hai  sông Vàm cỏ  ruộng đất còn chưa  được
             khai thác bao nhiêu, trong khi đó ở phía nam dọc sông Tiền,
             diện  tích  canh  tác  nông  nghiệp  đã  đạt  mức  rất  đáng  kể.
             Khu vực phía đông và đông-nam của Đồng Tháp Mười, nhờ
             tiếp  giáp  với  các  vùng  dân  cư  đã  tương  đối  ổn  định  nên
             công cuộc khai phá  cũng tương đôi  thuận lợi  và  phát triển
             sớm hơn.  Ngược lại, càng đi về phía trung tâm Đồng Tháp
             Mười theo hướng sông Vàm cỏ Tây, thì công cuộc khai phá
             càng khó  khăn.  Địa bạ  năm  1836 cho thấy rất rõ điều  đó.
             Trong  khi  ở  khu  vực  Cao  Lãnh,  Cai  Lậy,  Châu  Thành  đã
             xuất  hiện  những  thôn như Mỹ  Ngãi,  Nhị  Mỹ,  Phú  Mỹ  với
             hàng ngàn mẫu ruộng và  đất trồng khoai đậu,  vườn cau,  V.
             V...  của hàng trăm chủ  đất,  thì ở khu vực Vĩnh Hưng, Mộc
             Hòa, Tân Thạnh, Đức Huệ, các thôn như Thái Bình Trung,
             Tuyên Thạnh, Thủy Đông, Mỹ Thạnh Đông,  ...  chỉ mới có



            (h   Đại Nam thực lục.  Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, tập XXVII.
                 tr. 285. Trích lụi theo : Cao Tự Thanh. - Sđd., tr. 227.
   146   147   148   149   150   151   152   153   154   155   156