Page 154 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 154
138 Đồng Tháp Mười
khai thập tháp câu cừ” mà làm thủy lợi (1). Một trong những
nguồn dân nhập cư vào đây còn được biết là những giáo
dân Thiên Chúa giáo. Cũng cần nói thêm là kể từ năm
1644, do những sắc lệnh cấm đạo của các chúa Nguyễn, mà
về sau đến thời Minh Mạng (1820 - 1840) càng khắt khe
hơn, một số giáo dân đã trôn tránh và tìm tới những vùng xa
xôi hẻo lánh để sinh sông, kể cả vào Đồng Tháp Mười. Và
khi cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi bị dập tắt (1835) một sô"
đông người Việt theo Thiên Chúa giáo cũng đã trôn vào
đây. Được biết là giữa thế kỷ XVIII, ở hạ lưu sông Vàm
Cỏ Đông cũng đã có các tụ điểm dân cư của giáo dân
Thiên Chúa là Rạch Chanh, Nha Ràm và cần Đước... í2)
(những địa điểm này ngày nay đều thuộc địa bàn huyện
Cần Đước tỉnh Long An).
Đến giữa thế kỷ XIX, cư dân ven Đồng Tháp Mười đã
ngày càng phát triển, vùng đất Tháp Mười không còn là nơi
xa xôi, hẻo lánh nhưng vẫn là nơi đất rộng người thưa, vừa
thách thức mà vừa mời gọi. Công cuộc khai phá Đồng
Tháp Mười giờ đây mang theo dâu ấn “cộng đồng” rất đặc
trưng của Nam Bộ. Đó là trường hợp của ông Đoàn Minh
Huyên (hay Đoàn Văn Huyên), sau khi thành lập đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương (tại vùng Tòng Sơn, Long Xuyên) đã chia 2
(1) Nguyễn Liẽn Phong. - Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, quyển
2, tr. 68
<2) Liste général des églises et des oratoires, d’après les catalognes
dressés par M. Rivodl pour les Missions - Etrangères et pour la
Propagaude, par les P. Graff pour les Jésuites, et par les P. Philippe
de la Conception pour franciscaines. A. M. E., vol. 742. P. 308 -
428. Trích lại của A. Launay, Histoire de la Mission de
Cochinchine 1658 - 1771, Paris, Anciennes maisons Charles
dounoil et retause, 1924, pp. 190 - 1991.