Page 356 - nam bo xua va nay
P. 356
Vãi” tham gia. Mười tám năm sau, tập này được ấn hành tại Hà
Tiên. “Mùa hạ năm Đinh Ty (1737)”, Mạc Thiên Tứ đề tự, hai vị
khác đề bạt. Hai mươi năm sau nữa, (1775) Lê Quí Đôn theo Trịnh
Sâm vào Thuận Quảng mang cả về Bắc Hà. Năm 1776, Lê Quí Đôn
làm sách Phủ biên tạp lục, chép cả 10 bài họa của Nguyễn Cư Trinh
vào sách.
Điều hết sức thú vị là nội dung thơ chữ Hán “Hà Tiên thập
cảnh” của Mạc Thiên Tứ còn được diễn đạt lại bằng chữ Nôm và
theo thể thơ tiếng Việt. Dù rằng trong “Chiêu Anh Các” chỉ có 6 tao
nhân là người Việt. Cố thi sĩ Đông Hồ, người thiết tha với quốc ngữ,
đã đơn thân lập ra trường dạy Việt ngữ ở Hà Tiên, ngẫm nghĩ về
“Hà Tiên thập vịnh”: “Thật là kỳ thú, thật là lạ lùng cho tiếng Việt!
Tiếng Việt quả có một quyến rũ phi thường. Tiếng Việt quả có khả
năng cảm nhiễm những tâm hồn thơ mộng."
Cái gì khiến cho Mạc Thiên Tứ mở một cõi thơ vừa chữ Hán
vừa chữ Nôm làm rạng mặt đất Hà Tiên? Có thể như Đông Hồ nói:
“Họ Mạc đã biết lợi dụng tiếng Nôm để làm phương tiện tuyên truyền,
để làm lợi khí phổ biến việc chính trị, kinh tế...” Nhưng nếu chỉ có
thế, biết đâu những bài thơ, dòng chữ ấy chỉ là những nét mực khô
khan, những trang giấy lạnh lùng, không chứa nổi những “dòng xanh
tuôn chảy”. Làm sao có được những “Đêm thu hồ phía đông đón lấy
bỏng trăng trước nhất ”, tạo ra hai vầng trăng: “trăng trên tròi, trăng
đáy nước ” nhìn nhau (Thu dạ Đông Hồ tiên đắc nguyệt). Làm sao giữ
được tiếng chuông buổi sớm của chùa Tiêu, (Tiêu tự thần chung)
những ngọn sóng khơi xa Kim Dự, (Kim Dự lan đào) và tiếng trống
Giang Thành những đêm xưa lẫn với tiếng đao kiếm nghìn xưa còn
vọng lại đến ngày nay (Giang Thành dạ cổ).
Thời trẻ đi về với đất Hà Tiên, một thị trấn yên tịnh chốn biên
385