Page 144 - chua nguyen va cac giai thoai mo dat phuong nam
P. 144
giá khoảng hai nén bạc, hoặc khoảng 40 quan vào thập
niên 1770, rẻ hơn một tạ đồng đỏ (picul). Phủ Biên cho biết
nô lệ ở đồng bằng sông Cửu Long rẻ hơn ở vùng Thuận
Hóa xung quanh kinh đô. Một nô lệ da ngăm đen, tóc quăn
ở đây giá chỉ khoảng 20 quan hay bằng nửa giá trong vùng
Thuận Hóa. Nô lệ ít đen hơn giá lại càng rẻ, chỉ 10 quan.
Có thể có hai lý do giải thích sự khác biệt về giá cả
này. Trước hết giá cả có thể tùy thuộc ở chỗ người nô lệ
ở gần nhà hay ở xa nhà. Cũng như ở bất cứ đâu trên thê
giới “một khi đã bị bắt làm nô lệ, một nô lệ gần nhà
ít có giá hơn người ở xa nhà, chỉ bởi vì anh ta hay chị
ta có thể bỏ trốn”. Nếu đó là trường hợp của Đàng Trong
vào thế kỷ 18, thì những người nô lệ da ngăm đen có thể
có nguồn gốc từ những vùng núi xa xôi, trong khi dó người
nô lệ có nước da sáng hơn có thể có nguồn gốc từ những
vùng giáp với bờ biển, nơi thường xảy ra những vụ hôn
nhân giữa người Việt Nam và người Thượng. Hoặc sự khác
biệt về giá cả có thể đã phản ánh mức độ khác nhau của
việc Việt hóa. Một chuyên khảo về Thủ Dầu Một, xuất bản
năm 1910, cho phép chúng ta nghĩ như thế. Công trình
này cho biết dân tộc Stieng được chia thành hai nhóm,
một nhóm sống gần Hớn Quản (vùng An Lộc ngày nay)
và một nhóm sống ở Bù Đốp, tất cả đều ở phía Bắc tỉnh
Sông Bé ngày nay. Nhóm thứ nhất, mặc dù có nước da
ngăm đen theo tip người negrito nhưng lại có mức độ Việt
hóa đậm hơn. Nhóm hai có nước da tái hơn, giống như
người Malaysia hay người Chăm, bị coi là “kém văn minh”
145