Page 143 - chua nguyen va cac giai thoai mo dat phuong nam
P. 143
tại đây do số tá điền mộ được từ miền núi. Tuy nhiên, trong
bối cảnh này, từ “mộ” có thể được hiểu theo nghĩa rộng,
gồm cả những người mua được hay bắt được và bị dùng làm
nô lệ.
Việc dùng người Thượng làm nô lệ này cũng còn để lại
dấu vết trong ngôn ngữ ở Đàng Trong. Từ “tôi” trong ngôn
ngữ Việt Nam có nghĩa là người phục vụ, như tôi con, tôi
đòi, tôi tớ, nhưng chỉ có “tôi mọi” là có nghĩa “nô lệ”. Bởi
vì, ở phía Bắc, từ Việt Nam được dùng để chỉ người Thượng
là man chứ không phải “mọi”, “tôi mọi” có thể là dấu vết
do chế độ nô lệ ở Đàng Trong dể lại, cách riêng, việc người
Việt dùng người từ các vùng cao làm nô lệ.
Các nguồn tư liệu của Việt Nam thường nói là nô lệ chủ
yếu được sử dụng trong nông nghiệp để giải quyết tình
trạng thiếu nhân lực tại Đàng Trong lúc ấy còn thưa dân.
Nhưng người ta cũng thấy tại phủ chúa có một số nô lệ.
Theo Poivre, một công chúa thường có từ 20 đến 30 người
phục vụ, một ít binh lính và một số “petits sauvages
esclaves” (mọi nhỏ làm nô lệ)... Tác giả này cũng nhắc đi
nhắc lại về “một bày tôi người da đen được chúa sủng ái.
Đây là một người Cao Miên, hay đúng hơn, một người Lào”
rất có uy quyền về mặt chính trị tại phủ.
Theo Phủ Biên, việc buôn bán người Thượng đã trở nên
bình thường đến độ triều đình đã đánh thuế theo cùng tỷ
lệ với việc buôn bán voi. Theo đó, chúng ta có thể kết luận
được rằng ở đây, cả hai, nô lệ và voi được bán theo cùng
một giá. Cụ thể, một nô lệ, cũng giống như một con voi,
144