Page 159 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 159

Nghiên cứu phát triển                               143


            rất nhiều so với các khu vực khác đã  trở thành gắn bó  hơn
            bao giờ hết với vận mệnh của Nam Bộ  và  cả  nước.  Nhân
            dân  Nam  Bộ  cũng  như chung  quanh  Đồng  Tháp  Mười  đã
            cung cấp nhân lực, vật lực cho kháng chiến.  Trong khi đó
            tại  căn  cứ,  nghĩa  quân  tích  cực  khai  khẩn  đất  hoang,  làm
            nông nghiệp để tạo nguồn lương thực cho cuộc kháng chiến
            lâu dài, -  bởi triều đình nhà  Nguyễn đã  bất lực  và  cắt đất
            cho kẻ thù.

                Từ  cuộc  khởi  nghĩa  của  Võ  Duy  Dương,  Đồng  Tháp
            Mười  đã  trở  thành một trung tâm hội  tụ  nghĩa  sĩ yêu  nước
            trong  phong  trào  chống  Pháp.  Măc  dù  cuộc  kháng  chiến
            của Võ Duy Dương bị thất bại vào năm  1866, nhưng sau đó,
            cũng  chính  trên  vùng  đất  này,  một  loạt  những  cuộc  khởi
            nghĩa  khác  liên  tiếp  nỗ  ra  như  của  Nguyễn  Văn  cẩn,
            Nguyễn Văn Biểu (ở Vĩnh Hưng, Hồng Ngự), Lê Văn Ong,
            Nguyễn Văn Khả, Trần Văn Điền (Cái Bè, Cao Lãnh)(1)...

                Sức mạnh vật chất và tinh thần của các cuộc khởi nghĩa
            đó đã  trở thành một nguồn sinh lực mới, có tác động mạnh
            mẽ  đối với tiến trình phát triển của Đồng Tháp Mười trong
            giai đoạn này.  Chính hoạt động tiếp tế lương thực cho căn
            cứ kháng  chiến  đã  mở  thêm  cho  Đồng  Tháp  Mười  những
            đường  giao  thông  mới,  như trường  hợp rạch  Đường  Gạo...
            Hoạt  động  kháng  chiến  đã  thu  hút  về  đây  nhiều  nghĩa  sĩ
            yêu nước từ các nơi khắp Nam Bộ. Và  sau đó, những người
            nghĩa  binh  vẫn  tiếp  tục  bám  trụ,  sinh  sông  ở  Đồng  Tháp
            Mười.  Mặt khác, Đồng Tháp Mười cũng còn là nơi ẩn náu
            của nhiều nhóm nghĩa quân thất trận từ các chiến khu khác



            (I)
                Cao Tự Thanh. - Sđd., tr. 240.
   154   155   156   157   158   159   160   161   162   163   164