Page 157 - dong thap muoi nghien cuu phat trien
P. 157
Nghiên cứu phát triển 141
thuộc các huyện Cao Lãnh, Tháp Mười) “đất trũng đầm
lầy, cá tôm đầy rẫy, gỗ lớn cây tạp xanh tốt thành rừng, địa
lợi phần nhiều còn chưa khẩn hết”, còn những đầm lầy ở
huyện Kiến Đăng trấn Định Tường (tức khu vực “bồn
trũng” Đồng Tháp Mười) thì, cá tôm không thể ăn hết...,
mối lợi rất sẩn...”. Cho tới 1862, tại khu vực “bồn trũng” và
nhiều nơi dọc hai con sông Tiền Giang và Vàm cỏ Tây, cư
dân vẫn sinh sống chủ yếu bằng nghề khai thác nguồn thủy
sản to lớn này, mặc dù đã có thể bước vào sản xuất nông
nghiệp. Năm 1836, thôn An Long (nay thuộc xã An Long,
huyện Tam Nông) chỉ có 31 thửa ruộng, 83 thửa đất trồng
khoai đậu (có 2 khoảnh đất hoang nhàn) và 32 mảnh vườn
nhưng có tới 300 cái đìa; còn thôn Mỹ Điền (nay thuộc xã
Hưng Thạnh Mỹ, huyện Châu thành) có 166 mẫu ruộng thì
cả 17 người chủ đều bỏ không canh tác mà đào 125 cái đìa
để bắt cá (l)... Theo Đại Nam thực lục thì năm 1837, tỉnh
Định Tường đã có 1.070 cái đìa chịu thuế (2) và mười năm
sau, đến mùa cá 1846 - 1847 để được đánh bắt - khai thác,
ngư dân ở hai sở lò cá Hậu Diên Hạ (khu vực cạnh Sở Hạ,
náy thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp) và Như
Cương (khu vực thôn An Phong, huyện Thanh Bình, tỉnh
Đồng Tháp) đã sẵn sàng đóng cho chính quyền 26.130 quan
tiền, - tương đương với mức thuế đánh trên 13.065 mẫu
vườn hạng nhất theo qui định về thuế ruộng đâ't ở Nam Kỳ
năm 1836 (2 quan/mẫu/năm)(3). Sự so sánh kể trên quả là
có ấn tượng và cho dù công cuộc khai phá Đồng Tháp Mứời
ll) Nguyễn Đinh Đầu. - Sđd., tr. 144, 146.
) 2 Đ ạ i Num thực lục. Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, tập XIX, tr.
<
27. Trích lạ ỉ theo : Cao Tự Thanh. - Sdd. tr. 229.
Đại Nam thực lục. Sdd tập XXVI, tr. 86 - 87 và tập XVIII, tr. 241.
Trích lại theo : Cao Tự Thanh. - sdd., tr. 229.